Load Balance trong router Multi WAN của Vigor hoạt động như thế nào ?
DrayTek Multi WAN Router ngoài tính năng dự phòng, còn xây dựng sẵn khả năng tự động cân bằng tải, tính năng này cho phép router truyền các lưu thông đi ra theo các giao tiếp WAN khác nhau. Đây là một thiêt kế thông minh để khai thác tận dụng băng thông của các đường truyền Internet nối với các cổng WAN trên router.
Có 2 chế độ cân bằng tải là: “Auto Weight (Tự động cân bằng tải)” và “According To line speedWAN >> Genaral Setup.
(Cân bằng theo tốc độ đường truyền)”. Bạn có thể lựa chọn trong Menu
Lưu ý: Nếu chọn “According To Line Speed” cho giao tiếp WAN 1, giao tiếp WAN 2 cũng sẽ tự động chuyển sang “According To Line Speed”. Có nghĩa rằng cả 2 cổng giao tiếp WAN chỉ hoạt động cùng một chế độ cân bằng tải.
- Cơ chế load balance hoạt động như thế nào ?
Cơ chế này sẽ cập nhật lịch trình dựa trên thời gian thực để chuyển đổi giữa các WAN phụ thuộc vào băng thông còn dư.
Băng thông còn dư = băng thông lớn nhất của đường truyền – băng thông đang sử dụng.
Khi 1 session mới được gửi, session này sẽ lưu thông trên WAN đã được lập lịch.
Có 2 cách:
Cách này yêu cầu bạn nhập tốc độ thực của đường truyền cho cổng giao tiếp WAN. Ví dụ tốc độ thực được cấu hình như sau:
Băng thông còn dư = băng thông lớn nhất của đường truyền – băng thông đang sử dụng.
Khi 1 session mới được gửi, session này sẽ lưu thông trên WAN đã được lập lịch.
- Router tự dò băng thông lớn nhất của đường truyền như thế nào ?
Có 2 cách:
- “According To Line Speed” bạn phải nhập vào tốc độ thực của đường truyền bằng tay cho WAN1/WAN2.
- “Auto Weight” là bạn để router tự đánh giá tốc độ thực của WAN1/WAN2.
Cách này yêu cầu bạn nhập tốc độ thực của đường truyền cho cổng giao tiếp WAN. Ví dụ tốc độ thực được cấu hình như sau:
Lưu ý: tốc độ thực của đường truyền tính bằng Kbps ( kilo bit per second) chứ không phải KBps ( kilo Byte per second ).
Sau đó router sẽ xây dựng lịch trình để chuyển đổi giữa các WAN cho phép lưu thông đi ra, theo các bước như sau:
1/ Tốc độ của WAN 1 là 10.000Kbps
Tốc độ của WAN 2 là 20.000Kbps
2/ Router kiểm tra băng thông hiện hành đang sử dụng, giả sử trên:
WAN1 là 5.000Kbps
WAN2 là 5.000Kbps
Router sẽ tính toán băng thông còn dư trên cả 2 giao tiếp WAN. Trong trường hợp này, băng thông còn dư trên:
WAN 1 là: 10.000Kbps – 5.000Kbps = 5.000Kbps
WAN 2 là: 20.000Kbps – 5.000Kbps = 15.000Kbps
3/ Router nhận được tỉ lệ băng thông còn dư là 5.000/15.000 = 1/3
4/ Xây dựng lịch trình cho phép lưu thông đi ra, router biết được rằng băng thông WAN2 gấp 3 lần WAN1 nên lịch trình lưu thông đi ra của các session trên mỗi cổng WAN được xây dựng như sau:
WAN1 (1) -> WAN2 (2) -> WAN2 (3) -> WAN2 (4), rồi lập lại WAN1 (5) -> WAN2 (6) -> WAN2 (7) -> WAN2 (8) …
5/ Lưu thông đi ra tiếp theo sẽ gửi đi như lịch trình trên cho mỗi session.
“Auto Weight”
Nếu bạn chọn cơ chế này, bạn không cần nhập vào tốc độ của đường truyền. Router sẽ ghi lại tốc độ đạt được tối đa ở mỗi cổng WAN, và coi như “Line Speed” là tốc độ đường truyền của mỗi WAN, và tính toán xây dựng thời lịch trình như các bước trên. Điều này sẽ được thực thi lập đi lập lai sau một chu kỳ ngắn, để bắt kịp với sự thay đổi của tốc độ đường truyền
Lưu ý: “Auto Weight” sẽ không chính xác khi băng thông chưa được sử dụng hết. Ví dụ khi chỉ có 1 vài người truy cập internet hay vào lúc ban đêm lượng truy cập rất ít, băng thông trên cả 2 giao tiếp WAN đều không sử dụng hết tốc độ, trong trường hợp này router sẽ xây dựng lịch trình với tốc độ mà router nhận được không chính xác, điều này dẫn đến việc cân bằng tải không khả thi, khi đó tất cả lưu lượng đều chỉ chạy trên WAN 1 (hoặc WAN 2).
Khuyến cáo: Nếu chúng ta biết được chính xác tốc độ của mỗi đường truyền nên sử dụng chế độ “According To Line Speed” sẽ hiệu quả hơn là để router tự chạy “Auto Weight”.
Sau đó router sẽ xây dựng lịch trình để chuyển đổi giữa các WAN cho phép lưu thông đi ra, theo các bước như sau:
1/ Tốc độ của WAN 1 là 10.000Kbps
Tốc độ của WAN 2 là 20.000Kbps
2/ Router kiểm tra băng thông hiện hành đang sử dụng, giả sử trên:
WAN1 là 5.000Kbps
WAN2 là 5.000Kbps
Router sẽ tính toán băng thông còn dư trên cả 2 giao tiếp WAN. Trong trường hợp này, băng thông còn dư trên:
WAN 1 là: 10.000Kbps – 5.000Kbps = 5.000Kbps
WAN 2 là: 20.000Kbps – 5.000Kbps = 15.000Kbps
3/ Router nhận được tỉ lệ băng thông còn dư là 5.000/15.000 = 1/3
4/ Xây dựng lịch trình cho phép lưu thông đi ra, router biết được rằng băng thông WAN2 gấp 3 lần WAN1 nên lịch trình lưu thông đi ra của các session trên mỗi cổng WAN được xây dựng như sau:
WAN1 (1) -> WAN2 (2) -> WAN2 (3) -> WAN2 (4), rồi lập lại WAN1 (5) -> WAN2 (6) -> WAN2 (7) -> WAN2 (8) …
5/ Lưu thông đi ra tiếp theo sẽ gửi đi như lịch trình trên cho mỗi session.
“Auto Weight”
Nếu bạn chọn cơ chế này, bạn không cần nhập vào tốc độ của đường truyền. Router sẽ ghi lại tốc độ đạt được tối đa ở mỗi cổng WAN, và coi như “Line Speed” là tốc độ đường truyền của mỗi WAN, và tính toán xây dựng thời lịch trình như các bước trên. Điều này sẽ được thực thi lập đi lập lai sau một chu kỳ ngắn, để bắt kịp với sự thay đổi của tốc độ đường truyền
Lưu ý: “Auto Weight” sẽ không chính xác khi băng thông chưa được sử dụng hết. Ví dụ khi chỉ có 1 vài người truy cập internet hay vào lúc ban đêm lượng truy cập rất ít, băng thông trên cả 2 giao tiếp WAN đều không sử dụng hết tốc độ, trong trường hợp này router sẽ xây dựng lịch trình với tốc độ mà router nhận được không chính xác, điều này dẫn đến việc cân bằng tải không khả thi, khi đó tất cả lưu lượng đều chỉ chạy trên WAN 1 (hoặc WAN 2).
Khuyến cáo: Nếu chúng ta biết được chính xác tốc độ của mỗi đường truyền nên sử dụng chế độ “According To Line Speed” sẽ hiệu quả hơn là để router tự chạy “Auto Weight”.
loading...
Nhận xét